Ra Biển
Gọi Thầm
Trần Hoài Thư
Tôi lại trở về cùng
biển. Tôi lại trở về để nghe lời gọi mời của chân trời xa, của sóng, và mặt
trời. Tôi lại về bên này để nhớ về bên kia. Cũng vẫn một bầu trời xanh, cũng
vẫn những đám mây trắng nõn như đàn cừu trên triền đồi xanh cỏ, cũng muôn lời
ru trên mênh mông âm thanh của sóng và gió. Một chỗ đứng ở đây, ghềnh đá
dựng, bãi cát mềm, lũ còng bé nhỏ, nước lên rồi lại nước rút.
Mười tám năm, hay là mới hôm qua. Một chỗ ngồi ở đây hay một chỗ ngồi từ cõi
nào, ngày nào. Thuyền ơi thuyền ơi, thuyền trôi biền biệt. Mấy mươi năm chẳng
biết mô tìm. Tôi nói hoài. Tôi cứ gọi hoài. Con thuyền ở đâu giữa biển cả mịt
mùng. Sao nó chẳng hiện lên, chấm đen cuối trời, để tôi còn thấy nàng. Gió
trở lạnh, hay người tôi không được khỏe, hay tại vì khí hậu của vùng Ðại tây
Dương. Tôi mang lại chiếc áo ấm xưa. Mấy mươi năm chẳng biết mô tìm. Áo này
em đã thức bao đêm để gởi lên đường len thương nhớ. Tên này em quyện cả hơi
thở, ràn rụa nụ hôn. Còn nữa. Còn con sông chảy về Kiên Lương, nhánh chia về
Kinh Một, nhánh chảy về Hà Tiên, trước khi ra cửa biển. Con sông bên nhà em,
để tôi yêu vô cùng câu thơ cổ: Quân tại tương giang đầu. Thiếp tại tương
giang vĩ... Em yêu dấu vô cùng, và bao dung vô cùng. Con người là một loài
lau sậy, nhưng là loài lau sậy biết nương nhờ. Chúng biết suy nghĩ, dĩ nhiên,
nhưng chúng biết suy nghĩ để làm gì khi xã hội này không cho chúng suy nghĩ.
Chúng chỉ muốn quên, như giòng chữ bằng than người tù binh đã viết vội vàng
trên tường:
Ước gì mắt ta được mù tai ta được điếc...
Cái kiêu hãnh của một sinh vật đứng bằng hai chân phải bị nhường lại trước
cái kiêu hãnh của sa tăng. May mà chúng biết nương tựa lẫn nhau, dìu dắt cho
nhaụ Như trăm ngàn bóng ma ở trong rừng tràm Kinh Một,Tám gàn. Như em và tôi.
Em và tôi. Nhớ gì con thuyền nhỏ xuất hiện trên giòng kinh vào mùa nước lũ.
Nhớ gì màu nước đục ngầu, nước chảy xiết, mang trên giòng những đoàn quân lục
bình, tràm củi. Nhớ gì về một bầu trời xám hì, và những khu rừng lau trắng
bạt ngàn rợp mình dưới hững trận gió hung bạọ Nhớ gì về một tấm thân cha mẹ
ưng niu không may sinh lầm thế kỷ, để biết con người còn thua con vật. Con
người kỳ lạ. Nó biết kéo cái ách bằng ách nào hay nhất. Nó sáng tạo những dao
những búa thay vì người ta bắt nó dùng hai bàn tay không. Nó lại biết dùng
vải bao cát để che thân, dùng rơm cỏ để làm nệm, dùng dây điện thoại để làm
dây đàn, để hát lại những bài tình ca. Nó cũng thâm độc hơn bất cứ một sinh
vật nào. Nó đái lên những con cá lóc cá trê nó câu được trước khi nạp phần
cho cán bộ quản giáo. Nó thầm lén phạt đứt cọng mạ non thay vì làm cỏ. Nó
chửi thề khi hắn ngồi nghe chính trị viên lên lớp. Nhưng nó lại chịu thua
trước thiên nhiên. Bởi nước thiquá sâu, và chảy quá mạnh. Bởi bó tràm thì quá
ngỗ nghịch, cứng đầu. Nó ngoi ngóp. Nó vùng vẫỵ Hai chân vừa đạp, hai tay vừa
kéo. Mưa lạnh làm châu thân nó run như lên cơn sốt rét. Hàm răng nó đánh cầm
cập. Nó lại đóị Cái đói ghê gớm. Cái đói tàn bạo quật ngã nó khiến nó cứ thở
dốc, thở rống từng hồi từ lồng ngực ngỡ khô cạn. Nó lảo đảo. Nó đang ở bên
trời. Nó hay là tôi. Và tôi hay là nó. Tôi cũng chẳng cần biết nữa.
Chỉ biết có con thuyền nhỏ người con gái hôm nào đã dừng lạị Chiếc áo bà ba
vải trắng. Chiếc khăn sọc rằn quấn cả gương mặt như che bớt cái cam khổ mưa
nắng rừng tràm. Em hỏi tôi. Anh à, hay anh cột bè tràm này vào đò, để em
chống về trại dùm. Tôi nhìn em, lòng như bật khóc. Em như bà tiên, bà thánh
nữ, mẹ Maria, Phật Bà Quan Âm. Em từ đâu hiện đến cứu vớt tay Tôn hành Giả ở
tận đường cùng. Tôi nói cô không sợ sao. Em trả lời thách thức có gì mà em
lại sợ. Giúp người đâu phải là cái tội, phải không anh? Tôi thú thật với nàng
tôi quá đói. Em trao tôi gói cơm nếp, mấy con cá rô kho mặn trái dưa leo. Hai
tay tôi run. Tôi nhận ơn cứu độ. Phía xa ở cuối bờ là ngọn đồi Sọ, có cây
Thập Tự giá mờ nhạt in trên nền trời xám. Tôi nghĩ Ðất Trời Vô Lượng đang cúi
đầu nhìn xuống tôi. Như đôi mắt dịu dàng đang nhìn tôi, lúc nàỵ Sau đó, tôi
cột bè tràm vào sau chiếc đò tam bản.
Người con gái chống sào vượt giòng nước ngược. Thân hình em mảnh mai và đôi
bàn tay mềm mại cầm chiếc sào. Gương mặt trắng và đẹp có vẻ thị thành để tôi
biết em là cánh chim đến từ đất lạ. Tôi cũng vậy,cũng đến từ đất lạ. Chúng ta
cả miền Nam bây giờ cũng đến từ đất lạ. Bởi vì người ta đã đoạt quyền làm
chủ. Tôi bước theo trên bờ kinh. Mong thời gian ngừng laị. Mong người con gái
sẽ đứng đấy ngàn năm. Phía cuối chân trời là núi Sọ. Tượng Thập Tự giá vẫn
trơ trọi dưới màn mây cuối ngày sắp khóc. Chợt em nói: Anh ơi, đêm nay là đêm
Giáng Sinh. Tôi bàng hoàng: ồ thế sao. Tôi không hề biết. Cổ tôi lại khô. Tôi
nuốt nước miếng. Núi Sọ Ngài lên Thập Tự Giá. Núi Sọ đánh dấu cái tàn bạo của
con ngườị Nhưng Núi Sọ vẫn nẩy nở những nụ hoa bất diệt như người con gái ở
Kinh Nhà Chung này. Ðến gốc xoài cách trại tù khoảng 500 thước, tôi kêu nàng
dừng lạị " Cô ơi, đến đây được rồị Tôi có thể bè một mình..." Nhưng em vẫn
còn muốn giúp kéo thêm một đoạn. Em nói:
" Còn xa lắm. Ðể em chống thêm một lát không sao đâu anh" .
Tôi khẩn khoản: " Cô hiểu dùm tôi. Người ta biết được chắc tối nay tôi phải
nằm ngoài chuồng kẽm gai, muỗi hút tôi không còn giọt máu" .
Em nghe lời. Em trả lại bè tràm. Tôi cám ơn em, và nhủ lòng trong suốt quãng
đời còn lại, tôi sẽ không bao giờ quên được một người con gái. Và em từ giã.
Chiếc xuồng tam bản mỗi lúc mỗi mờ nhạt, và thân hình mảnh mai của em càng
lúc càng mất hút giữa một rừng lau trắng bạt. Ðó là đêm Noel đầu tiên để tôi
biết được thế nào là sự bao dung của Thượng đế. Hình như tôi nhớ đến một đoạn
nào trong Thánh Kinh. Hãy nhìn những con chim sẻ ngoài đồng nội, Ta còn cho
chúng chiếc áọ.. Nếu quả vậy thì Thượng Ðế đã rủ lòng thương của Ngài xuống
khắp trần gian. Tôi là một kẻ không đạo, nhưng tôi tin có đôi mắt Ngàị Ðôi
mắt từ núi Sọ, dù đêm ở đây đen tối quá chừng. Ai đã kể lại lịch sử của kinh
Nhà Chung. Ngày xưa, vua Minh Mạng bài đạo, sát đạo cùng khắp. Có nhóm người
trốn ra hòn đảo nhỏ sau đó quay lại đất liền, phá rừng tràm lập lại nhà thờ
và dựng nên một thập tự giá trên ngọn đồi thấp, tức Núi Sọ bây giờ. Ai lại
nói về những đêm xưa. Những đêm những xuồng ghe từ mọi nơi đổ về hành hương
dưới chân Núi Sọ. Bây giờ cảnh cũ không còn nữa. Tất cả là đất lạ, ngay trên
nơi chôn nhau cắt rún của mình.
Ðêm ấy, những người tù mừng Giáng sinh bằng ấm nước nhãn lồng và hát cho nhau
nghe những bài Giáng sinh. Hải lấy cây đàn mà anh tự chế với ván thùng đạn và
sợi dây điện truyền tin. Anh dạo lại bài Ave Maria, khiến con tim chúng tôi
muốn nghẹt thở. Chúng tôi ngồi xít lại nhau vừa nghe vừa chuyền điếu thuốc
lào trong khi đêm ngoài lán đen và dày xôn xao lời dạ trùng và lời ru của
gió. Riêng tôi, cảm động quá chừng. Không có giáo đường và máng cỏ. Không có
cây thông và tiệc nửa đêm. Không còn người con gái dịu dàng bước qua cửa
thánh. Những điều đó có ý nghĩa gì khi cả miền Nam rưng rưng nước mắt. Dù vết
cứa cứ hành người trong cuộc nhưng đôi khi ta phải thương hại kẻ đã cứa ta.
Ðầu óc chỉ biết đến bùn, đến máu. Họ thức trong khi ta mệt ta ngủ. Họ canh
trong khi ta mơ. Họ rình rập trong khi ta ung dung. Có phải vậy không, hay là
tôi đã tạo ra một triết lý để an ủị Không, tôi không an ủi. Chúng tôi không
an ủi bằng nỗi bất lực. Hải vẫn đàn từ bản này qua bản khác.
Hùng vẫn ngâm những bài thơ hay dạo nàọ Tự vẫn tha thiết bài hát. Lửa vẫn ấm
từ những anh chàng chuẩn úy, thiếu úy, trung úy, những tú tài cử nhân cao học
tiến sĩ bác sĩ kỹ sư từ Kinh Một về Nhà Chung về Tám Ngàn. Ðể rồi họ phải ào
vào, lên cò đạn, rọi đèn pin khắp lán. " Các anh giờ này còn tụ tập để hát
nhạc phản động ấy hả ?" Tội nghiệp cho họ. Họ chưa biết đời là gì. Họ sống
như thể một con trâu ngoài đồng nội, bị xỏ mỏ bởi những tay phù thủỵ Họ đã
không còn làm chủ lấy chính con người của họ nữa.
Từ đấy tôi có một người đến với giòng lênh đênh. Mỗi lần ra chợ Tròn để đào
trùn về nuôi bầy vịt của đám quản giáo, tôi lại được cơ hội gặp người con
gái. Nàng cùng đứa em trai chăn bầy vịt trên bờ hồ. Người lính canh gốc miền
Nam thường bỏ một mình tôi cùng với những đống rác bẩn thỉu để la cà tán tỉnh
các cô hàng nước trong chợ. Tôi mang thùng đựng trùn về bờ hồ. Mặt hồ phẳng
và nước hồ xanh lợ Nàng cầm chiếc gậy tre đuổi theo đám vịt, và mái tóc nàng
xõa tung baytrước gió. Nắng làm má nàng đỏ hồng. Mắt nàng sáng lênkhi gặp tôị
Rồi nàng ngồi xuống bờ hồ, quẹt mồ hôi trán. Tôi nhìn nàng, ước gì có phép
lạ. Phải, tôi sẽ lau dùm những giọt đời bất hạnh gian khổ. Tôi sẽ che nắng
lửa khỏi làm nám màu da trắng nuột của em. Nàng vẫn tinh nghịch như người con
gái Saigon. " Anh ơi, anh nhìn kia kìa. Ðám vịt con không dám xuống hồ cùng
mẹ. Chúng sợ nước rồi. " Nàng quả ngây thơ để lòng tôi phải nẩy nở một niềm
hạnh phúc thật tinh khiết. Tôi có lần hỏi nàng. " Cô bé, em không sợ anh là
ngụy sao? " Nàng trả lời: " Em thấy các anh tội nghiệp quá. Tại sao người ta
lại ác với các anh như vậy ? Em nhìn các anh vác gạo, bè tràm, em lại nhớ đến
người anh của em. Ảnh bị bắt ở Xuân Lộc. Bây giờ không biết bị tù ở đâu" . Tù
ở đâu. Ở đâu cũng là nhà tù. Và ai ai cũng chui vào cửa ngục. Cả em nữạ. Bởi
vậy chúng ta mới ở cùng một hàng ngũ. Tôi muốn nói với nàng như thế. Nhưng
tôi phải từ biệt nàng. Chiếc thùng trùn này, với những con trùn hổ, trùn đất,
trùn trâu. Chúng là căn phần của cặn bã, nhưng cũng có những kẻ cần chúng,
như những thùng phân mà người dân miền Bắc đã giành giựt trong bao nhiêu năm.
Rồi một ngày người con gái chợ Tròn gặp tôi, giọng thì thào như thể có điều
gì nghiêm trọng. " Anh hãy đến đầu đống rác dưới gốc cây xoài, có cái lon sữa
bò." Rồi nàng vội bỏ đi, đuổi theo bầy vịt trên bờ hồ. Tôi xách thùng giả vờ
lui cui đào bới. Người cảnh vệ đã bỏ đi về phía khu nhà chợ. Tôi mở nắp lon
sữa bò, thấy tờ giấy cuộn trong lon. " Anh Hai của em đã vượt ngục về đâỵ
Mười hai giờ trưa nay có người đưa về chỗ trú. Ðêm nay tàu sẽ vượt biển. Họ
cần một người biết lái tàu. Em biết anh là sĩ quan hải quân nên em đã giới
thiệụ Ðừng chần chờ nữa. Anh nhớ đến bến đò... Thương yêu anh. Em. "
Bây giờ tôi đang ở tại đất người. Bao năm chờ đợi một tin người yêu cũ để rồi
cuối cùng người anh của nàng một đêm gọi điện thoại về để báo tin trong tiếng
nấc. Chiếc tàu mang nàng đi đã bị tàu hải tặc ủi chìm sau khi chúng thi nhau
hãm hiếp từng người đàn bà con gái trên tàu. Mày có thương nàng thì lấy cái
ngày tàu nó đi làm ngày giỗ, để nó còn yên ổn dưới lòng biển cả.
Trần Hoài Thư
Trở về trang tác
giả và tác phẩm
|